1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29

Bùi Ngọc Tấn
Ngoại hình của ông làm hắn thất vọng. Nó chẳng chứng tỏ điều gì, ngoài cái cảm giác đó là một con chạch, rất khó nắm bắt, còn ngoi lên, còn ngoi lên nữa. Thật đối lập với ông Hoàng. Cao lớn, đẹp đẽ, khoan thai. Hắn hiểu ngay ông Hoàng không phải là đối thủ của ông Trần. Ông Hoàng tin ở lẽ phải, ở chính nghĩa, tuyên chiến trước khi giáp trận. Còn ông Trần sẵn sàng đánh trộm sau lưng, hạ đối thủ ngay từ nhát dao đâm trộm ấy.
Không phải hắn ghét ông Trần hay yêu ông Hoàng mà gán ghép cho mỗi ông một vẻ xấu đẹp thích ứng. Hắn chỉ trung thành với hiện thực. Hắn vẫn phản đối kiểu xuyên tạc hiện thực, dẫn đến công thức nhàm chán: Về ngoại hình chính diện bao giờ cũng đẹp đẽ, còn phản diện thì tha hồ bôi bác.
Có một chi tiết nữa ở ông Trần mà hắn rất nhớ là trong lúc nói chuyện, thỉnh thoảng đồng tử mắt ông lại thu nhỏ lại. Hắn quả quyết như vậy vì hắn có thói quen nhìn thẳng vào mat người đối thoại, và hắn thấy điều ấy rất rõ. Khi ông Trần xúc động, đồng tử ông hơi co lại theo hình bầu dục, một hình bầu dục dựng đứng giữa lòng con mắt như nứt ra giữa hai mí mắt. Thật là dị tướng!
Hắn cũng không ngờ được gặp ông (đời hắn quả là liên tiếp những chuỗi bất ngờ). Lang thang tìm cách kiếm sống, đến nhà một người quen ở vùng ven đô để hỏi việc gia công sợi buộc lạp-xường, hắn thấy ông Trần bước vào sân cùng với mấy người nữa. Ngay lúc ấy hắn nghĩ đến Lâm Bưu và hắn biết đã gặp ai. Ông Trần đang đứng trước mặt hắn. Tiên ông và phù thuỷ đang đứng trước mặt hắn. Hắn lảng vảng ở vườn, chờ cho chủ, khách uống hết một tuần trà, mới vào nhà lễ phép tự giới thiệu và xin được gặp ông vào một ngày nào đó. Cố che giấu, nhưng vẫn để lộ một chút ngạc nhiên, ông nhận lời.
Hôm ấy ông Trần đến đấy ăn thịt chó, và sau đó anh chủ nhà cho hắn biết anh bị ông ấy căn vặn mãi: Có phải anh ta bố trí mời ông tới nhà để hắn gặp không? Đúng là ông nhìn sự việc không đơn giản xuôi chiều, rất trí lự và dưới nhiều góc độ.
Hắn ra về ngay để khỏi phiền anh chủ nhà, khỏi đưa anh vào thế khó xử. Hắn xúc động vì quá bất ngờ. Hắn đạp xe về chỗ anh Thân, thở hổn hển:
- Em vừa gặp ông Trần xong.
Hắn thuật lại chuyện và nói:
- Ông Trần hẹn cho em gặp rồi.
Anh Thân bảo:
- Gặp một ông thường vụ làm gì mà cứ cuống lên thế. Binh thường thôi.
Không bình thường đâu anh ơi! Đây là lần đầu tiên một ông thường vụ gặp hắn. Mà lại chính là ông Trần, người bắt hắn, người có cái gậy thần, người đã làm thay đổi cuộc đời hắn. Ông Trần nhận sẽ gặp hắn. Hắn chờ, chờ mãi. Ông Hoàng đã về nhà hắn hai lần rồi, ông Trần mới cho người đưa giấy mời hắn tới Sở. Không phải giấy gọi, giấy hẹn, mà giấy mời. Thật là tôn trọng và lịch sự.
Hắn đã chuẩn bị kỹ cho cuộc gặp này. Bình, Ngọc và hắn đã thống nhất: Phải rất linh hoạt. Đừng cứng nhắc đòi phục hồi, đòi bản thảo. Không ăn thua gì đâu. Phải tùy tình hình.
Hắn đến Sở. Cùng tiếp hắn có cả ông Quảng, trưởng phòng đặc trách văn hóa. Vậy là hôm nay hắn được gặp cả hai ông. Khác hẳn ông Trần, ông Quảng cao lớn, béo tốt, dầy đặn, phúc hậu và toàn nói những điều nhân đức. Ngoại hình và ngôn ngữ ông Quảng đáp ứng điều hắn vẫn suy nghĩ về những đao phủ thời hiện đại. Ông Trần mời hắn ngồi xa-lông, ông Quảng đóng vai người tháp tùng. Ông Quảng pha trà, rót nước, bóc bao thuốc lá Điện Biên bao bạc mời hắn. Bình đẳng, lịch thiệp, văn hoá, tôn trọng và hiếu khách.
Ông Trần ngả lưng vào xa-lông, nhìn hắn cười thoả mãn như một người lâu quá không được gặp hắn và vẫn mong gặp hắn như cái kiểu “bấy lâu vắng mặt khát khao”. Ông hỏi hắn thân mật như hỏi một cán bộ dưới quyền mà ông hiểu từ chân tơ, kẽ tóc:
- Thế nào? Thắc mắc lắm phải không?
Rõ ràng ông biết hết ruột gan hắn. Đã bao năm rồi hắn chưa được một ông công an nào hỏi một câu như vậy. Với giọng điệu cởi mở thông cảm như vậy.
Hắn cố nặn ra một nụ cười tươi tỉnh và khiêm tốn:
- Thưa anh, tôi như một đứa con bị bố mẹ đánh. Cảm thấy bị đánh oan, rất mong có dịp thưa lại cùng bố mẹ.
Câu trả lời ấy làm vừa lòng ông Trần. Hắn chờ câu nói tiếp theo của ông để đoán biết ông định giải quyết cho hắn vấn đề gì.
- Chúng tôi đã nhận được đơn của anh. Tôi nghĩ bây giờ trước hết phải lo việc làm cho anh đã. Có đúng thế không?
“Thế là ông khoanh lại vấn đề ấy: Việc làm! “
Hắn hiểu và tin chắc như vậy. Việc làm. Nhưng là việc gì chứ? Bảo hắn đi quai búa hay đi phụ nề?
Hắn nghĩ tới những công việc khổ sai hắn đã trải. Phải nói rõ. Không thể chung chung được.
- Thưa anh. Tôi bị thiệt thòi nhiều. Chẳng riêng tôi. Vợ tôi được cơ quan cử đi học đại học, đang học thì bị Sở Công an gọi về làm phụ kho trong khi bạn bè vợ tôi đều đỗ đại học và...
Ông Trần bật ngồi thẳng lên, ông ngắt lời hắn:
- Ai? Ai? Sao lại gọi chị ấy về?
Giọng ông ngạc nhiên, sửng sốt. Thật bất ngờ với hắn. Hắn vẫn tưởng chính ông Trần quyết định việc ấy Và lần đầu tiên hắn thấy đồng tử của ông co lại thành hình bầu dục dựng đứng giữa con mắt nhỏ. Ông nghiêm khắc nhìn ông Quảng như muốn hỏi: “Sao lại có chuyện ấy? Sao tôi không biết gì cả? Ai cho phép các anh làm như vậy?”
Ông Quảng với vẻ nhẫn nhục cao cả của một người làm điều thiện, nhưng buộc phải mang cái vỏ độc ác mà người ta dễ hiểu lầm, nhìn ông Trần với vẻ biết lỗi:
- “Báo cáo anh, dạo ấy anh Tuấn đang ở trong trại. Phải đưa chị ấy về vì các cháu không ai chăm sóc. Cả bốn cháu còn quá nhỏ.”
Sự tiêu diệt cuộc đời vợ hắn đã được người ta giải thích như vậy. Hắn căm thù và ghê tởm nhất sự dối trá mà đây lại là sự dối trá trắng trợn nhất với hắn. Sự đê tiện đến vậy là giớí hạn, là tận cùng. Hắn uất ức nhìn ông Quảng, cái nhìn ngây ngô như một con vật bị giết trước lúc chết. Nghĩa là hắn nhìn ông mà chẳng nhìn thấy gì. Hắn nhìn ông ma còn cố nén, cố giữ cho mạch máu khỏi vỡ toác ra. Ông Trần khinh khỉnh nhìn ông Quảng, cái nhìn chứa đựng dông bão, làm vơi đi rất nhiều bóng tối trong lòng hắn. Hắn tin rằng khi hắn về, ông Trần sẽ trút lôi đình và ông Quảng sẽ lãnh đủ, sẽ hiểu thế nào là những hành động vô nguyên tắc, tư thù cá nhân, phá hoại chính sách của Đảng. Hắn nói mà chính hắn cũng ngạc nhiên ở giọng điệu bình tĩnh của mình:
- Báo cáo anh đấy là sự đau khổ lớn thứ hai của chúng tôi. Về chuyện các cháu, chúng tôi đã thu xếp cho chúng về ở với bố mẹ tôi. Vợ tôi rất quyết tám khắc phục mọi khó khăn để học đại học.
Ông Trần trầm ngâm, tư lự. Rõ ràng ông đang gánh nỗi đau khổ của hắn. Như được ông khuyến khích, hắn nói tiếp:
- Bạn học của vợ tôi học xong đều là kỹ sư, trưởng phó phòng. Có người còn là chủ nhiệm. Vợ tôi về Công ty làm phụ kho. Tôi nói vậy để báo cáo với anh là chẳng cứ tôi bị thiệt thòi mà cả vợ tôi. Mong anh thông cảm với hoàn cảnh của tôi, cho tôi làm một việc gì đó hợp với khả năng và sức khoẻ của tôi, để tôi có thể có thu nhập.
Lời xin thật khiêm tốn, thiết tha. Ông Trần như chỉ mong hắn đề nghị điều gì đó để ông giúp hắn vợi bớt được khổ đau. Ông sốt sắng có pha chút long trọng để hắn hiểu ràng đây là những lời nói chính thống hắn có thể hoàn toàn tin tưởng:
- Tôi hôm nay nhân danh lãnh đạo thành phố, giám đôc Công an nói với anh rằng: Anh sẽ được làm một việc phù hợp với khả năng để từ đó có thu nhập.
ôi! Thật tuyệt vời! Ông Trần thương hắn. Dù sao ông cũng biết hắn đau khổ nhiều, mà hắn lại là em một người cùng cấp uỷ với ông, là con một gia đình cách mạng. Chưa một người công an nào nói với hắn như vậy. Người ta toàn răn đe hoặc nói như đánh đố.
Trong không khí cởi mở ấy, hắn dấn thêm một bước, cụ thể hơn:
- Thưa anh, tôi có thể làm thi đua được không ạ?
Hắn nói vậy vì hắn nhớ đến ông Hoàng. Ông Trần nhướn cặp mắt nhỏ lúc đó trông rất nhân từ bao dung và lấp lánh:
- Được chứ. Sao lại không. Thay mặt lãnh đạo thành phố tôi nói với anh là anh được làm thi đua. Thay mặt lãnh đạo thành phố tôi nói: các con anh được vào đại học. Anh hoàn toàn yên tâm.
Đó chính là điều hắn định sẽ hỏi ông. Là một nội dung cốt yếu hắn muốn được nói cùng ông. Hắn biết hắn đã gây đau khổ cho con cái. Cái lý lịch đi tù, phản cách mạng của hắn là một gia tài ghê gớm mà chúng nó sẽ thừa kế. Con địa chủ, con tư sản không được vào đại học. Đã hẳn. Ngay nông dân lao động không vào hợp tác xã, con cái dù học giỏi đến mấy cũng không được vào đại học. Nói gì đến con một thằng. phản động hiện hành. Hắn còn đang lựa lời tìm cách nói với ông chuyện con cái thì ông đã chủ động nói trước. Ông Trần quả đã nhìn thấu tim gan hắn. Hắn nhìn ông, cái nhìn kính trọng, biết ơn. Hẳn ông Trần đã hiểu lời nói của đôi mắt hắn, ông hỏi hắn:
- Thế, được chưa?
Hắn cám ơn ông, cám ơn lãnh đạo thành phố và ý thức được ràng đây là lần gặp duy nhất trong đời hắn với ông Trần, bởi thế cần phải tranh thủ làm cho ông hiểu hắn:
- Thưa anh, tôi nghĩ việc xử lý tôi là quá nặng. Tôi sợ rằng anh nhìn tôi qua những lăng kính trung gian. Tôi cũng phải báo cáo với anh rằng: Chưa ai nói tôi mắc tội gì.
Hắn im lặng. Ông Trần khuyến khích:
- Cứ nói tiếp đi.
- Thưa anh, tôi nói điều gì có thể anh không tin. Nhưng tôi nói điều này chắc là anh tin. Đó là tôi rất muốn ở nhà với vợ, với con, tôi rất sợ đi tù một lần nữa. Muốn vậy tôi phải biết những khuyết điểm của tôi để tôi rút kinh nghiệm, để tôi tránh. Cho đến bây giờ trong cơ quan an ninh, chưa ai nói cho tôi biết tôi có những khuyết điểm gì.
Hắn muốn nói rõ hơn: Thưa anh tôi chưa biết tôi mắc tội gì, tôi xin được biết để tôi tu dưỡng. Nhưng sợ rằng câu nói ấy ngụ vẻ khiêu khích, bôi nhọ cơ quan an ninh. Làm gì có chuyện đi tù năm năm mà chẳng biết mình mắc tội gì. Hắn phải thay chữ tội bằng chữ khuyết điểm. Thì khuyết điểm cũng là tội chứ sao. Hắn nói và nghiêm trang nhìn ông Trần, dò xem phản ừng trên nét mặt ông. Ông gật đầu như kiểu đã biết tình huống này từ lâu rồi. Ông nói với vẻ nhẫn nại, cam chịu của một Chúa cứu thế:.
- Tôi biết. Tôi biết anh thắc mắc nhiều. Phương pháp tư tưởng của anh khá chủ quan. Về chuyện ấy chúng tôi sẽ làm việc với anh vào một dịp khác. Chắc chắn anh sẽ được thoả mãn.
Lại những điều muôn thuở, những lời nói kiểu đánh đố làm hắn dị ứng. Nhưng hắn vẫn lễ phép vâng vâng. Hắn đã thực hiên được phương châm tự đề ra cho mình từ khi bị bắt. Thái độ mềm dẻo, khiêm tốn, nhưng cứng rắn về nguyên tắc. Không lùi bước trước bất kỳ ai, bất kỳ sự dung doạ nào. Như vậy, dù sao buổi gặp ông Trần cũng đạt được mục đích: Thay mặt lãnh đạo thành phố, Sở Công an, ông Trần đồng ý cho hản đi làm trở lại, hắn được làm thi đua, con hắn được đi học đại học. Đó là nhửng thắng lợi quan trọng. Đó là những yếu tố pháp lý mà hắn sẽ nắm lấy để nói chuyện với những người còn muốn giết hắn, đầy đọa hắn. Hắn đã làm ông Trần hiểu hắn hơn. Hiểu những gì hắn đã chịu, đang chịu, hiểu tâm tư nguyện vọng chân thành của hắn. Hiển nỗi đau của vợ hắn. Và hắn cũng hiểu ông Trần hơn. Hắn hiểu bọn cán bộ trung gian đã xuyên tạc hắn với ông. Chỉ bằng vào việc họ gọi vợ hắn về không cho học nữa là đủ biết bọn ấy thật độc ác và lộng quyền. Chính bọn ấy đang phá chế độ, phá Đảng, đang phá hoại lòng tin của quần chúng. Họ làm những việc tầy đình trắng trợn mà lãnh đạo không hay biết gì cả. Việc của hắn nếu ông Trần hay biết từ đầu thì đâu đến nỗi. Hắn tin rằng cùng với thời gian, ông Trần sẽ hiểu hắn hơn nữa và sẽ đối xử với hắn, với vợ con hắn không đến nỗi nào. Tất nhiên hắn chẳng mong ông kỷ luật, khiển trách mắng mỏ cái làng kính trung gian ấy, nhưng ông sẽ không đến nỗi khắt khe với hắn như chính bọn “lăng kính”, bọn ông Lan, ông Quảng.
Nghĩ đến Ngọc bị đuổi học, nghĩ đến lời giải thích của ông Quảng về chuyện gọi Ngọc về để trông nom con cái và sự sửng sốt của ông Trần, hắn căm thù vị trưởng phòng đặc trách ván hoá phương phi, phúc hậu và nghĩ hẳn ông Trần đã thấy được hắn bị đối xử quá đáng như thế nào. Hắn tin ông Trần bắt đầu nhìn thấy sự thật. Sẽ thay đổi cách đối xử với hắn. Ông đã hứa với hắn về công việc, lại có sự giúp đỡ của ông Hoàng, hắn sẽ thuận lợi. Điều đó là tối thiểu. Hắn phải được hưởng điều tối thiểu ấy. Hắn muốn được giải quyết tận gốc cơ. Hắn có tội hay không có tội. Bản thảo hắn tốt hay xấu? Bởi thế hắn lễ phép nói với ông Trần trước khi ra về:
- Thưa anh, tôi rất cám ơn anh đã cho tôi được gặp, cho tôi được đi làm và các con tôi sẽ được vào đại học. (Phải nhấn lại một lần nữa những điều quan trọng ấy chứ). Tôi tha thiết đề nghị anh chỉ thị cho tôi xin lại bản thảo của tôi. Đó là tất cả gia sản, công sức mười năm lao động miệt mài của tôi. Thực sự tôi đã bị tịch thu tài sản.
Hắn nói với giọng đau khổ van xin cầu khẩn của một kiếp giun dế nhỏ mọn để tăng thêm sức thuyết phục, để lời đề nghị của hắn không hàm một ý hỗn xược, xấc láo nào có thể làm ông phật ý. Ông Trần gật đầu và nhiệt tình đáp:
- Được, anh cứ yên tâm. Bản thảo của anh là của anh.
Hắn thuật lại cho Bình nghe. Bình gầm gừ, uất hận:
- Đã đành phải nhấn mạnh với bọn ấy để chúng nó hiểu không phải chỉ cái xe đạp, cái áo sơ-mi mới là tài sản, nhưng bản thảo của mày không chỉ là tài sản của mày, đó là tài sản quốc gia.
Đụng đến điều ấy là Bình uất hận. Đó là chỗ nhạy cảm nhất trong thần kinh của anh. Anh lầu bầu:
- Bọn phá hoại văn hóa.
Điều ấy hắn cũng thừa biết, hắn còn nghiền ngẫm nhiều hơn, nhưng hắn không dám nói ra. Hắn sợ với cả Bình, sợ với chính hắn. Hắn sợ cứ nói thế thì đâm quen đi, mà muốn không nói thì trước hết phải đừng nghĩ. Hắn rụt rè với mọi người và đâm ra rụt rè với chính mình. Rụt rè cả trong suy nghĩ. Thực ra hắn rất muốn nói với ông Trần: “Tôi không xin anh sự chiếu cố, sự khoan hồng. Tôi chỉ muốn được hưởng luật pháp. Tôi xin anh một lời buộc tội”.
Đó là những lời thẳng thắn, là bản chất của sự việc, là sự chân thành và cũng là mục đích của luật pháp, mục tiêu của Sở Công an nữa mà sao nghe cứ như khiêu khích. Nên chỉ đến khi ngồi một mình hắn mới nghiền ngẫm vụng những câu đối thoại ấy trong chốc lát. Cho nó hả trong đầu tí chút. Rồi thôi.
*
* *
Tiếng lành đồn xa. Chuyện hắn gặp ông Trần và những lời ông Trần hứa hẹn với hắn đã được nhiều người biết. Chắc chắn anh Thân và Bình là những người háng hái phổ biến tin này, kèm theo vài lời bình luận về sự giải quyết có lý có tình của thường vụ - tức là của ông Trần, cũng có nghĩa là hắn chẳng có tội tình gì.
Sau buổi đó ít lâu, nghĩa là đã bước sang năm 1975, năm được ghi vào lịch sử đất nước và lịch sử đời hắn như những cái mốc quan trọng: Năm toàn thắng ở miền Nam, năm hắn được đi làm. Một người bạn thân của anh Thân, một người quen hắn, yêu quí hắn, đến nhà hắn mang theo nửa ki-lô chè búp loại ngon nhất, một xếp giấy trắng, một mớ những bản báo cáo đã đánh máy, bảo hắn:
- Lãnh đạo thành phố cho ông đi làm rồi, phải không? Ông về chỗ tôi. Trong khi chờ đợi, ông giúp tôi! Tôi phải báo cáo điển hình ở hội nghị tổng kết của Bộ Lao động. Ông cố giúp tôi. Chè đây.
Và lấy từ trong túi ra nửa cây thuốc Tam Thanh.
- Thuốc đây.
Đó là món nhuận bút đầu tiên khi hắn ra tù, khoản thù lao của ông Thưởng, trưởng phòng lao động khu phố. Ông cũng là một người khét tiếng với những dư luận bao quanh như ông Ngoãn, trưởng phòng thủ công, em ruột ông Trần.
Người ta thêu dệt rất nhiều chuyện không hay về ông Thưởng. Chuyện ông ăn đút lót, chuyện ông giàu có, chuyện gặp được ông còn khó hơn gặp bí thư thành ủy. Chuyện ông gây khó khăn cho mọi người trong việc cấp giấy đi làm... vv và vv...
Có lẽ chỉ hai điều đúng thôi: ông không biết đi xe đạp. Và từ sáng sớm đã có nhiều xe đạp đón ông đi ăn sáng. Ai mời được ông ngồi sau pooc - ba - ga chở ông đi thì đã có thể vênh mặt lên với người khác được rồi.
Hắn chỉ thấy ông là người tuyệt vời. Ông trước đây cũng là một cộng tác viên của báo. Hắn không để ý gì đến ông. (Vì ông thì chẳng bao giờ có thể là nguyên mẫu cho một tác phẩm văn nghệ được. Phải là những công nhân lò nung, những người thợ cơ khí, những người gác đèn ngoài đảo xa). Nhưng ông Thưởng biết hắn, để ý đến hắn, quí hắn. Lòng quí mến của ông là hoàn toàn thành thật, không vụ lợi. (Hắn thì đem lại cho ông mối lợi gì mới được chứ). Ông quí hắn, vì ông có viết lách chút ít (một quí viết vài ba cái tin thôi). Ông thấy rõ cái khổ của nghề cầm bút và tài năng của hắn. Ông quí hắn, vì ông là bạn với anh Thân. Ông thương hắn, vì ông biết hắn chẳng có tội tình gì mà trong ông vẫn còn sót một chút đặc tính của dân tộc: Sự thương vay.
Hắn đỡ các thứ trong tay ông, cảm thấy mình trở lại làm người khi cầm xếp giấy và những bản báo cáo ông đưa hắn làm tài liệu. Có lẽ Ngọc nói đúng: Hắn có quí nhân phù trợ. Ông Thưởng - cái ông trưởng phòng không biết đi xe đạp và chỉ quen biết bình thường này - bỗng trở thành ngôi sao chiếu mệnh cho hắn. Hắn nghĩ: Đời hắn nếu không có ông Hoàng, ông Thưởng thì sẽ ra sao? Đã bao lần hắn nói: Trên có ông Hoàng, dưới có ông Thưởng. Đó là những người hắn mang ơn cứu mạng. Những người sống tết, chết giỗ. Đấy mới thật là những “người thay đổi đời tôi”.
Thỉnh thoảng đến thăm và cũng là để xem bản báo cáo viết đến đâu rồi, ông Thưởng nhắc lại:
- Ông về chỗ tôi làm. Về với tôi. Đời ông có khốn nạn thế này ông mới phải về với tôi. Chứ không làm sao tôi dám nói vậy.
Đó là những lời có thể làm người ta khóc được. Vì vẫn được đánh giá đúng. Vẫn được coi trọng. Và muốn vợi cho nhau khổ đau...
Hắn viết cho ông cái báo cáo về giải quyết lao động ở một khu phố. Đây sẽ là báo cáo minh hoạ, bổ sung cho báo cáo tổng kết của Bộ trưởng. Hắn lại lúi húi ngồi viết. Lại thức khuya khuya một tý. Lại pha trà. Lại đốt thuốc. Lại bơm thêm mực vào cái bút Pilot ngòi cánh sẻ bằng vàng 14 cara, người bạn trung thành không rời hắn suốt năm năm tù tội, theo hắn vào tù từ ngày đầu tiên, ở xà lim 76, xà lim 75, lên đến tận V. Q. Hắn viết báo cáo công phu như viết một truyện ngắn. Đó là sáng tác đầu tay của hắn trong khúc đời mới. Ông Thưởng ghé lại đọc những trang đã viết và rất hài lòng. Một đệ tử đèo ông bằng xe đạp đến nhà hắn, và đúng giờ hẹn lại đón ông. Hắn nghĩ hắn sẽ làm quân của ông Thưởng thôi. Có một thủ trưởng như vậy, còn ao ước gì hơn. Ông Thưởng bảo: ông đã đặt vấn đề xin hắn với tổ chức khu phố rồi. Tất cả đều ủng hộ. Ông Trần đã bật đèn xanh thì cứ thế mà làm, chẳng ai nghi ngại điều gì.
Hắn làm đơn xin việc gửi ông Thưởng. Xin vào chỗ ông Thưởng có một điều thuận tiện là chỉ cần lá đơn ấy thôi. Làm đơn xin vào nơi khác phải qua chỗ ông Thưởng, phải qua phòng lao động. Ông Thưởng nhận đơn tại nhà hắn, nói cả với hắn về dự kiến phân công nữa. Hắn mong quá. Mong từng ngày. Càng mừng càng mong. Càng mong càng sốt ruột. Năm ấy lại mưa dầm. Mưa xuân ảo não, thúc giục. Thứ mưa xuân mịt mù trời đất, tê cóng trong lòng. Những ngày mưa xuân đầu năm 1975, già Đô quần áo lên rêu cắm cúi trên những đống rác mà hắn gạp lần cuối cùng ở cửa nhà hát. Hắn đã nhìn thấy ánh sáng ở cuối đường hầm. Hắn sắp đi hết đoạn đường của hắn. Già Đô cũng sắp đi hết đoạn đường của già. Bằng cách của già. Bằng cách nằm phiêu diêu và thấy mình như tan đi...
Vào lúc đó cả miền Bắc bàng hoàng vì chiến thắng.
Khi quân ta bắt đầu chia cắt quân địch, bao vây Đà Nẵng thì hắn nhận được giấy mời ra đồn của công an khu phố. Hắn nghi ngại. Hắn cảm thấy có một điều gì rất xấu đến với hắn. Linh tính mách bảo hắn. Và hắn đã không nhầm. Đích thân ông Khuổng, thiếu tá trưởng khu công an tiếp hắn. Cái quân hàm thiếu tá, lại là thiếu tá công an, thời đó giá trị lắm. Ông thiếu tá có dáng cao, gầy răng trắng, sít nhau rất đẹp. Ông tiếp hắn như một thiếu tá trưởng khu tiếp kẻ phạm tội đã hết hạn cải tạo: Bề trên, nghiêm khắc, lạnh lùng, khinh khỉnh vv
Ông chỉ ghế cho hắn ngồi:
- Thế nào” Mấy hôm nay anh có nghe đài không?
- Thưa thiếu tá, có ạ. Tôi nghe tin tức qua cái loa ở Ngã Bảy.
- Phấn khởi chứ?
Câu hỏi ấy có nghĩa là: Bọn chống Đảng, bọn phản cách mạng các anh còn hoài nghi, còn mất lòng tin nữa không. Cách mạng đang tiến bước, những bước quyết định. Các anh đã mở mắt ra chưa?
- Thưa ông, phấn khởi ạ.
Sao lại không phấn khởi khi cuộc chiến đẫm máu kéo dài ba mươi năm có thể sẽ chấm dứt. Quả là không ngờ tình huống xảy ra nhanh như vậy cùng với phương châm chiến lược nổi tiếng của ta: “Thần tốc” và phương châm chiến lược nổi tiếng của Thiệu: “Tuỳ nghi di tản!”. Đã có lúc tưởng chiến tranh sẽ kéo dài như Nam - Bắc phân tranh thời Trịnh-Nguyễn, như cuộc chiến trăm năm của Pháp. Hy vọng đây là lần đổ máu cuối cùng. Để lại sống trong hoà thuận. Để người đất mũi Cà Mau và người vùng biên giới Lạng Sơn gặp nhau có thể vỗ vai nhau, gọi nhau là người anh em. Bởi vì chẳng bao giờ một người đánh cá Phan Thiết lại nghĩ phải đi giết chết người thợ sơn tràng Bắc Giang và ngược lại. Chiến tranh là kế tục của chính trị. Đây là cuộc chiến của hai ý thức hệ, của hai hệ thống, đã có những lúc tưởng không có ngày cuối cùng, cuộc chiến dài nhất thế kỷ này có thể sắp kết thúc. Để có thể chấm dứt canh vay tuổi quân, cảnh làng xóm vắng ngắt thanh niên, cảnh xương máu trộn với bùn đất Trường Sơn. Những bà mẹ khóc con, những người vợ trẻ goá chồng đã là nhiều quá rồi trên dất nước này. Chiến tranh còn kéo theo nó bao nhiêu thứ. Chiến tranh ắt phải có người bạn đồng hành: Tù đầy. Không thể nào khác được. Dù nó xảy ra ở đâu. Hắn khẳng định phát hiện của mình. Chân lý ấy hắn đã khám phá ra bằng chính cuộc đời hắn. Sau này khi nghe tin ở nước nào trên thế giới đang có chiến tranh, hắn nghĩ ngay đến những nhà tù tất nhiên phải có ở nơi ấy nghĩ đến rất nhiều người đau khổ và oan khuất bị lưu đầy tăm tối, dù màu da nào, dù chưa biết mặt, nhưng đều là anh em, những người như hắn đã âm thầm góp vào cuộc chiến cái quí giá nhất của đời mình: Tự do.
Chính lúc đang ngồi với ông Khuổng, hắn lại nghiền ngẫm và khẳng định “công lao” của hắn đã đi tù để đóng góp vào chiến thắng. Không ai có thể bác bỏ được điều ấy. Không ai có thể tước đi của hắn niềm tự hào nhục nhã hắn có. Ông Khuổng chuyển giọng:
- Hôm nay chúng tôi mời anh ra đây để thông báo với anh một việc.
Đó là giọng nói của nhà đương cục. Ông lạnh lùng nhìn hắn:
- Chúng tôi đã quyết định: Anh không được đi làm.
Hắn choáng váng. Lúc đó hắn choáng váng.
Nhưng sau này nghĩ lại hắn lại thấy đó là những lời thành thật, dễ nghe. Hắn vẫn thường ao ước được nghe một câu nói thẳng thắn của các ông công an:
“Tao giết mày đây. Tao đang giết mày”. Thế là gọi sự việc bằng tên của nó. Là sự thẳng thắn, thành thật. Không giả dối, không đạo đức giả. Dù sao cũng dễ chịu hơn nhịều so với giọng điệu bi thương: “Chúng tôi giúp dỡ anh, cảnh tỉnh anh, để anh khỏi trượt sâu vào con đường tội lỗi”. “Chúng tôi để chị Tuấn về không học nữa vì các cháu còn bé, không ai bảo đảm”.
Hắn ngồi lặng đi.
Đã nghĩ rằng việc gì cũng có thể xảy đến với mình mà vẫn cứ lặng đi. Những việc tốt đẹp thế làm sao lại có được. Bây giờ mới thật không ngạc nhiên về bất cứ vấn đề gì nữa.
- Thưa thiếu tá, anh Trần thay mặt lãnh đạo thành phố, thay mặt Sở Công an đã nói với tôi là tôi được đi làm ở cơ quan nhà nước, được làm những việc phù hợp với khả năng...
Hắn nói và đau khổ nghĩ rằng: Lẽ ra trong buổi gặp ông Trần hắn phải viết ngay vào một tờ giấy nội dung quan trọng ấy và xin ông Trần ký ngay vào đó. Dù như vậy có lố bịch đi chăng nữa, có biểu hiện thiếu lòng tin đi chăng nữa, bất lịch sự chăng nữa. Ông Khuổng không che giấu sự giễu cợt:
- Điều ấy anh đi mà hỏi anh Trần nhé. Còn tôi nói: Anh! Không! Được! Đi! Làm!
Ông nói dằn từng tiếng, để nhấn mạnh tính xác thực, trọng lượng của quyết định, giống cách nói của A Thềnh: Tôi! Không! Lậm!Cậm! Đâu! ông còn bồi thê-m một đòn nữa. Hình như ông đoán được hắn đang nghĩ gì.
- Tôi đã chỉ thị cho tiểu khu rồi. Tiểu khu không được ký giấy cho anh đi làm.
Đúng là lúc ấy hắn đang nghĩ đến ông Hoàng. Ông Khuổng không cho hắn đi làm, ông Thưởng chịu bó tay, nhưng ông Hoàng thì chẳng đời nào. Ông Khuổng là ai, hẳn ông Hoàng không biết tới sự tồn tại của ông. Hắn nghĩ là hắn vẫn được đi làm, bất chấp ông Khuổng không cho hắn đi. Nhưng điều ông Khuổng vừa nói làm hắn hoảng sợ. Đúng là hắn phải chịu ông. Ông Hoàng cũng phải thua ông. Tiểu khu không xác nhận, không ký vào đơn, phòng lao động không thể nào cấp giấy cho hắn được. Một đòn chết tươi, không thể chống đỡ. Cái gót chân Asin mà các ông ấy đã nghiền ngắm rất kỹ. Hắn chỉ còn một con đường: Chết trong khi sống.
*
* *
Hắn không thể chấp nhận điều ấy. Hắn tìm gặp ông Trần, nhưng sao gặp được ông. Hắn vẫn tin rằng nếu gặp được ông Trần, mọi sự sẽ được giải quyết. Hắn bảo với những người thân:.
- Chính ông Trần đã đồng ý cho tôi đi làm mà ông Khuổng lại bảo thế.
Nhưng anh Thân lắc đầu:
- Ông Trần nói vậy thôi. Việc này là do chính ông Trần.
Hắn ngớ ra:
- Sao? Anh bảo gì?
Anh Thân cắm phẫn:
- Bố thằng Khuổng sống lại cũng không dám làm trái ý ông Trần.
- Nghĩa là...
- Nghĩa là ông Trần nói với chú thế thôi, sau đó ông Trần chỉ thị cho thằng Khuổng những việc ngược lại để nó làm với chú.
Hắn cố bám vào một dẫn chứng khác:
- Cũng có thể chỉ là bọn trung gian. Như nhà em đang đi học bị bọn Quảng, Lan gọi về dấy, ông Trần có biết đâu. Em nói, ông ấy cứ ngớ ra.
Anh Thân càng căm phẫn hơn:
- Cũng là ông Trần hết. Không có lệnh ông Trần, thằng Quảng sao dám tự tiện gọi thím ấy về. Bố bảo!
Lúc bấy giờ hắn chưa tin ngay lời anh Thân. Hắn chỉ ngờ ngợ thôi. Nhưng khi bình tĩnh lại, hắn suy xét và thấy anh Thân đúng. Nhất là sau này khi ông Bượng đã về hưu, ông nói với hắn hết. Đúng là mọi điều đều ở ông Trần. Sao ông ác thế Hắn không hiểu nổi. ác và xảo quyệt. Hắn chưa từng gặp một người như ông.
Nhưng vậy sao ông lại gặp hắn, hứa hẹn với hắn?
Hắn suy nghĩ và thử đi tìm nguyên nhân. Tại ông Hoàng, nên ông Trần phải làm động tác giả ấy. Cũng có thể đơn giản là ông muốn gặp hắn, nhìn con người đã bị ông hại, nhìn cái xác chết còn muốn gượng gạo ngồi dậy. Cũng có thể ông muốn tạo một dư luận tốt về mình trong thành phố, chuẩn bị cho kỳ đại hội Đảng tới. Ông thâm hiểm thế, nào ai biết được vì sao ông gặp hắn. Chỉ có điều chắc chắn là ông Khuổng không thù oán gì hắn chẳng bao giờ lại làm một việc ngu ngốc là chống lại ông Trần, chống lại lãnh đạo thành phố. Điều ấy rõ ràng như ông Khuổng không là một người điên vậy.
Đúng như hắn dự đoán. Ông Trần lên như diều. Từ giám đốc Sở Công an ông lên làm bí thư thành uỷ. Rồi ông lên trung ương, làm thứ trưởng. Ông đi thăm các báo. ảnh ông in trên trang nhất, ngay dưới măng-sét. Hắn hiểu đời hắn không còn chút hy vọng gì nữa. Và hắn buồn rầu nghĩ: Những người như ông Trần mà được tín nhiệm như vậy thì chẳng riêng gì đời hắn, đời bao người khác cũng không hy vọng nhiều nhặn gì đâu

* *
Thế là hắn đã bị bịt kín mọi lối. Chỉ còn một chút ánh sáng ở con đường dẫn đến ông Hoàng. Lại một lần nữa hắn được gặp ông Hoàng ở nhà khách thành phố vào một buổi tối. (Gần như những dịp về công tác tại P, có điều kiện, ông lại gặp hắn). Hắn thuật cho ông nghe mọi chuyện, từ chuyện ông Trần tới chuyện ông Khuổng. Ông nghe và im lặng.
Hắn không thấy vẻ bực bội trên khuôn mặt nhân hậu của ông, mặc dù rõ ràng như vậy là những người cán bộ cũ của ông gây ra việc oan trái nhưng không chịu sửa. Hơn thế, họ còn quyết chống lại ông, tuyên chiến với ông. Hắn lo sợ, vì hắn, ông đã bị xô đẩy vào một tình thế khó xử. Hắn nhìn ông như người có lỗi.
Ông giở cặp, lấy bút giấy ra viết. Đó là bức thư gửi giám đốc, bí thư đảng uỷ xí nghiệp đánh cá, nơi ông đã dự kiến cho hắn về làm việc. Là thủ trưởng của ngành, việc ấy với ông không gặp khó khăn. Nhưng còn cái giấy của tiểu khu. Ông hiểu chuyện ấy. Có lẽ chính ông sẽ phải xuất tướng để giải quyết cái việc cỏn con mà quan trọng này. Người ta đi làm mà cũng không cho. Thật không thể hiểu được. Cuộc sống sẽ ra sao, chế độ sẽ ra sao, nếu những việc như vậy tiếp diễn, bất chấp đạo lý, dư luận và lý tưởng của Đảng... Đồng chí Tổng Bí thư nói nếu nhìn một phụ nữ đẩy xe bò mà trong lòng không xúc động thì không còn là người cộng sản nữa. Ông nghĩ tới điều ấy vì ông bỗng thấy mình đơn độc. Lòng con người với con người xơ cứng lại rồi. Người ta dửng dưng trước những đau khổ xảy ra với người khác. Hoặc ít nhất, người ta im lặng. Chẳng có bộ luật xử những người im lặng trước nỗi đau khổ của người khác. Nhưng phải thấy đó là điều đáng sợ đối với xã hội. Đó là sự đồng loã, là môi trường để cho cái ác phát triển”. “Thương người như thể thương thân”. Câu ấy không thấy nhắc lại nữa. Vì nó không mang tính giai cấp. Hay xã hội ta tốt đẹp, không có những con người đáng thương nữa?
Đôi mắt ông đượm buồn, và hắn biết hắn là nguyên nhân nỗi buồn của ông. Hắn đỡ lá thư ông vừa viết gửi lãnh đạo xí nghiệp đánh cá, nghe ông căn dặn, động viên. Hắn muốn quì xuống cám ơn ông. Ra về, hắn nghĩ về ông. Ông như một nốt nhạc lạc lõng trơng dàn nhạc. Hẳn nhiều lúc ông thấy mình rất cô đơn...
Ngọc không nói gì khi xem bức thư của ông Hoàng. Nàng lại thắp hương. Bên cạnh cái nhìn trần thế giờ đây nàng có cái nhìn xa vắng. Cái nhìn hướng về một nơi nào đó xa vời, thăm thẳm. Nàng bảo hắn:
- Mai anh xuống xí nghiệp, đưa thư của ông Hoàng đi. Ngày mai tốt ngày đấy.
Giờ thì Ngọc tính toán rất kỹ ngày tốt ngày xấu. Hắn đi về phía cuối thành phố, nơi đặt trụ sở của xí nghiệp đánh cá với bức thư của ông Hoàng. Và những kỷ niệm lại đến với hắn. Hàng phi lao, nơi đây một lần hắn đã mua mấy cân cá mực vào dịp mồng hai tháng Chín do anh thông tin viên của xí nghiệp đã làm sẵn hoá đơn. Hàng phi lao đã to thế này, nhưng hắn vẫn nhận ra nhờ khúc đường nhựa lượn cong và con lạch dẫn nước thải đen chảy về phía bờ sông. Hắn cân mực chính ở chỗ này, chỗ có cái cống này. Và bãi sú bỗng hiện ra. Một dòng sông mải miết trôi xuôi.
Những cánh hải âu bay lượn. Đó chính là điều hắn vẫn nghĩ tới những trong ngày đêm bị nhốt ở một lòng chảo giữa rừng. Hắn như ngửi thấy mùi thoáng đãng của biển cả.
Điều đó chỉ tăng thêm sự hồi hộp khi hắn tới gặp ông giám đốc, ông bí thư đảng uỷ để đưa bức thư của ông Hoàng. ở đây người ta đã biết mọi chuyện về hắn. Ông Hoàng đã nói chuyện. Họ nhìn hắn dưới góc độ của ông Hoàng. Thật vô cùng thuận lợi.
Ông trưởng phòng tổ chức tiếp hắn, tôn trọng, cởi mở và thông cảm. Thật khác với những ông trưởng phòng tổ chức được miêu tả trong các sách thời đó. Thời đó người ta bắt đầu chán kiểu viết xuôi chiều. Người ta viết và cũng muốn gai góc trong những điều mình viết. Bí thư đảng uỷ, giám đốc thì không dám đụng đến vì giám đốc đại diện cho chính quyền, bí thư đại diện cho Đảng. Đụng đến các ông ấy là đụng đến chế độ, là khốn khổ cả đời. Các ông ấy không thể có khuyết điểm nhất là khi đã được điển hình hoá trong văn học. Nếu có đáng phê bình thì chỉ có thể là “đồng chí quá thẳng thắn thành ra đôi khi hơi nóng nảy”, hoặc như Bình nói: “Đồng chí làm việc nhiều quá, khuya quá, ít chú ý giữ gìn sức khoẻ để làm việc lâu dài. Sức khoẻ của đồng chí không còn là của riêng đồng chí. Nó thuộc về nhân dân. Nó là tài sản của nhân dân. Tôi thẳng thắn phê bình đồng chí. Dù đồng chí có hiểu nhầm tôi, nhưng tôi có bổn phận...” Vậy thì đành lôi mấy ông trưởng phòng tổ chức ra hành, vì ông là lãnh đạo, nhưng chỉ ở mức độ nào thôi. Trên ông đã có những người mẫu về đạo đức, về trí tuệ, về tác phong. Đó là giám đốc, là bí thư, những người đại diện toàn năng cho chế độ.
Ông trưởng phòng tổ chức nói rất thành thật:
- Có chỉ thị trực tiếp của anh Hoàng, chúng tôi chấp hành thôi. Không có vấn đề gì đâu. Anh không phải lo lắng gì cả. Anh về làm cho chúng tôi cái đơn và giấy giới thiệu của phòng lao động khu phố.
ắn chết lặng. Hắn đã biết đó là thủ tục bắt buộc phải có, nhưng vẫn hy vọng mình được ngoại lệ, vì ông Hoàng giới thiệu và đảm bảo. Hắn càng hiểu cái đòn của ông Khuổng (thực ra là của ông Trần - Ông Trần đánh chưởng qua tay ông Khuổng) là hiểm. Ngón đòn hắn không thể nào đỡ được. Đứng trước ngón hiểm đó hắn chỉ có thổ huyết. Cuộc đấu này giữa hắn và mấy ông không đồng cân đồng lạng. Hắn đã bị đo ván, không gượng dậy được, mà mấy ông còn xúm lại chơi đòn hội chợ diệt cho đến chết. Biết rằng không bao giờ ông Trần cho hắn gặp nữa, nhưng hắn vẫn đến Sở, đăng ký xin gặp. Còn biết bấu víu vào đâu. Khi ông Khuổng nói: “Tôi chỉ thị cho tiểu khu rồi. Tiểu khu không được ký giấy cho anh đi làm”, thì chỉ có ông Trần mới giải được câu bùa chú đó thôi. Hắn không được gặp ông và hắn nghe tin ông đi học Nguyễn ái Quốc. Đó là cửa ải ông bắt buộc phải qua, là Vũ Môn để cá chép hoá rồng.
Một chút hy vọng mơ hồ, mỏng manh mà hắn cố nhen nhóm đã tắt lịm.
Thôi. Đành chết trong cuộc sống.
*
* *
Tôi tin lời ông bác sĩ nào đó đã nói với Chủy, nhưng tôi nghĩ đó còn là vấn đề khác nữa. Đó chính là sự sống đã thắng cái chết. Cuộc sống mới đủ sức xoá đi những đau khổ cũ. Cuộc sống mới tuy còn cả lo âu và những khó khăn, nhưng có rất nhiều niềm vui lớn.

Hắn đọc lại một lần nữa những câu cuối cùng trong truyện ngắn Vợ chồng người thợ xóm Chiêu Thương của hắn. Truyện kể về một chị công nhân xi-măng hoạt động bí mật bị Pháp bắt, tra tấn dã man. Đến lúc lấy chồng (một anh thợ lò nung) mỗi khi mang thai chị lại bị ngất và thai sẩy. Trong những lần ngất đi ấy những vết giày đinh phòng nhì Pháp giẫm lên chị năm nào lại hiện về rõ mồn một, tím bầm trên người chi những lỗ tròn nhỏ của đầu đinh, cái gót hình vành cung có cá sắt và cái mũi bè bè của đôi giày lính. Những vết giày đinh ở bắp tay, ở lưng, ở cổ, ở ngực chị. Chiến tranh qua đi nhưng cái bóng dáng ghê tởm của nó chưa chịu buông tha người ta ngay đâu. Sau nhiều lần sa sảy, cuối cùng chị cũng đã vượt qua được tất cả, cái mầm sống trong người chị cũng vượt qua được tất cả. Chị sinh con. Mẹ tròn con vuông. Và từ ấy những vết giày đinh trên người chị biến mất. Những cơn ngất bất thình lình biến mất. Ông bác sĩ bảo đó là sự chuyển hoá trong cơ thể người phụ nữ sau khi sinh đẻ. Nhưng hắn nghĩ đấy là sự sống đã thắng cái chết, cuộc sống mới đủ sức xoá đi những đau khổ cũ...
Truyện viết lấy ý từ một cô gái Lâm Động, bí thư chi đoàn khi hắn từ báo T về Lâm Động viết bài cho số báo xuân. Cái chi tiết những vết giày đinh tuồng như bịa đặt, nhưng lại là sự thật với cô bí thư chi đoàn, cô gái cùng quê, bạn hắn. Thời ấy cứ cùng lứa tuổi cùng chí hướng gặp nhau là bè bạn...
Hắn nhìn lại dòng ngày tháng hắn đã ghi khi hoàn thành truyện ngắn. Năm tháng ấy chẳng gợi một ý niệm gì. Một ngày nắng hay một ngày mưa. Lúc viết xong là chiều, sáng hay đêm khuya. Chẳng làm sao nhớ được.
Ngồi mơ màng một lúc, hắn gấp mấy tờ giấy đánh máy lại, cho vào túi ni-lông đựng thư từ. Đó là những trang bản thảo của hắn còn giữ lại được trong số trên một ngàn trang đã bị tịch thu. Nhớ Phượng. Phượng đánh máy thêm một bản mà không ngờ đó là bản duy nhất còn lại đốl với chính người đã viết ra nó.
Hắn đọc Vợ chồng người thợ xóm Chiêu Thương lần này là lần thứ ba. Ba lần đọc. Mỗi lần một ý nghĩ khác nhau. Đã đành “văn mình, vợ người”, nhưng hắn đọc lại không phẫi để thưởng thức, nhấm nháp văn chương của hắn. Hắn đọc để trở về quá khứ. Đời hắn bây giờ chỉ còn quá khứ. Truyện ngắn ấy như hắn nghĩ, nói được hắn. (Viết bao giờ cũng là sự tự thể hiện mình, dù viết về ai, về điều gì. Hắn lúc nào cũng tin như vậy). Nó nói được khát vọng của hắn, của mọi người về một cuộc sống tốt đẹp hơn, niềm tin vào cuộc sống mới đó. Khi hỏi cung, các ông công an có vặn vẹo hắn về quan diểm, lập trường, nhìn đời den tối, kêu ca, bất mãn... hắn đã dẫn chứng phản bác lại bằng những trang viết của hắn mà các ông ấy đã tịch thu, trong đó có “Vợ chồng người thợ xóm Chiêu Thương”. (Hắn rất muốn nói thẳng với các ông ấy rằng, hắn có quyền bất mãn với những cái xấu và sự bất mãn đó là tích cực, là cách mạng, nhưng không dám. Thôi, đừng khiêu khích các ông ấy làm gì).
“Cuộc sống mới tuy còn cả lo âu và những khó khăn, nhưng có rất nhiều niềm vui lớn”. Ngày xưa hắn thành thật tin như vậy. Bây giờ đọc lại hắn thấy mình quá ngây thơ. Nỗi đau còn quá nhiều. Nỗi đau còn quá lớn. Nó chỉ thay đổi vẻ mặt, thay đổi y phục mà thôi. Nhiều người đã nhận ra điều ấy, trong đó có hắn. Nhưng còn rất nhiều người chưa nhìn thấy. Lại có vấn đề “đôi mắt” .
“Đôi mắt ngày ấy còn là đôi mắt trẻ thơ mà đã bị qui là phản động rồi. Và đó chính là cái mày gọi là cuộc sống mới”. Hắn chua chát nghĩ. Hắn lẩm bẩm rằng chính bọn hắn phải chịu trách nhiệm về những gì đang xảy ra trái với những mục tiêu của cách mạng. Hắn cùng bao người đã thành thật ca ngợi cách mạng. Đẩy lên thành sự tô hồng. Rồi đẩy quá nhanh tốc độ của sự tô hồng mà thành thật tin rằng mình chỉ nói sự thật hoặc báo trước sự thật. Để sau này nhìn ra thì không hãm được nữa. Tốc độ ấy cuốn theo cả những người đã tạo ra nó. Bọn hắn vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân. Và hắn lại thấy đổ vỡ, trống rỗng. Một lỗ sâu hoác, không đáy. Cảm giác trống rỗng của thất vọng, của niềm tin sụp đổ. Thà cứ được là con chiên loá mắt trước Chúa, trước nước thiên đàng, còn hơn bỗng nhiên chẳng thấy ảo ảnh đâu mà chỉ có thực tế trần trụi. Và hắn bỗng nhớ tới Dự. Hẳn Dự cũng đã trải qua những cảm giác ấy. Cho dù có đơn giản hơn, nhưng vẫn là những cảm giác ấy.
Đó là những gì hắn nghĩ khi đọc lại truyện hắn viết lần thứ nhất...
Lần thứ hai hắn đọc để rồi đem đốt đi. Sau khi xuống xí nghiệp đánh cá trở về, hắn ra phòng lao động gặp ông Thưởng, hỏi ông về cái giấy giới thiệu đi làm. Ông Thưởng nói như người có lỗi:
- Thằng Khuổng hiểm quá. Nó rất cáo. Nó không dám đặt vấn đề với tôi, mà nó nói với tiểu khu chúng tôi không thể làm được hồ sơ cho anh. Đó là nguyên tắc.
Rồi ông tiếp:
- Tôi cũng đã xuống tiểu khu. Đúng là thằng Khuổng đã chỉ thị cho họ như vậy, nhân danh khu uỷ. Bậy bạ thế chứ. Tôi cũng ở trong khu uỷ . Khu uỷ nào có nghị quyết như vậy.
Hắn cũng đã làm đơn lên tiểu khu, xin được đi làm. Ông phụ trách tiểu khu nhìn hắn vừa như ái ngại, vừa như khinh bỉ:
- Hiện nay chưa có việc gi cho anh đi làm đâu.
Hắn nói rõ là có nơi nhận hắn. Ông tiểu khu như đã biết mọi chuyện:
- Đâu thế mà được. Cơ quan, xí nghiệp nào cần người phải có chỉ tiêu về phòng lao động. Phòng lao động phân bổ cho các tiểu khu. Trên cơ sở ấy tiểu khu mới tuyển. Anh hiểu không? Không thể làm sai nguyên tắc được.
Hắn lại xuống xí nghiệp, chầu chực gặp ông trưởng phòng tổ chức. Ông trưởng phòng tổ chức khẳng định một cách rất vô tư rằng không có giấy của phòng lao động thì không thể tiếp nhận hắn dù có chỉ thị trực tiếp của Tổng cục trưởng.
Kỳ Trước | Kỳ Sau

 


Ý Kiến Bạn Ðọc
 
Tên