Nguyễn Huy Thiệp
Mười truyện trong bản nhỏ


Ở Tây Bắc có một bản nhỏ người Thái đen nằm cách chân đèo Chiềng Dông chừng dậm đường. Bản tên là Hua Tát.

Bản Hua Tát ở trong thung lũng hẹp và dài, ba bề bốn bên là núi cao bao bọc, cuối thung lũng có hồ nước nhỏ, nước gần như không bao giờ cạn. Xung quanh hồ, khi thu đến, hoa cúc dại nở vàng đến nhức mắt.

Từ thung lũng Hua Tát đi ra bên ngoài có nhiều lốị Lối đi chính rải đá, vừa một con trâụ Hai bên lối đi này đầy những cây mè loi (1), tre, vầu, bứa, muỗm và hàng trăm thứ cây dây leo không biết tên gọi là gì. Lối đi này đã in dấu chân nhiều người. Trong số đó, từng nghe có cả một vị hoàng đế.

Thung lũng Hua Tát ít nắng. Ở đây quanh năm cứ lung bung một thứ sương mù bàng bạc nên nhìn người và vật thì chỉ nhìn thấy những nét nhòa nhòa đại thể mà thôị Đây là thứ không khí huyền thoa.i.

Ở Hua Tát, những chuyện cổ như những bông hoa dại, màu vàng nhạt, bé như khuy áo, điểm đâu đó quanh rào trong các ngõ nhỏ. Đàn ông ngậm hoa này trong miệng uống rượu không bao giờ saỵ Nó cũng giống như những viên đá cuội trắng có gân đỏ, mảnh như sợi chỉ nằm kín đáo nơi lòng suốị Phụ nữ thích những viên sỏi nàỵ Họ nhặt nó về ủ trong áo lót đủ một trăm ngàỵ Khi làm đệm cho chồng, họ dấu viên sỏi đó vào trong. Có lời truyền rằng người chồng nằm trên đệm ấy sẽ không bao giờ mơ tưởng đến những phụ nữ khác.

Hua Tát là một bản nhỏ cô đơn. Người dân ở đây sống giản dị, chất phác. Công việc nương rẫy nhọc nhằn vất vả. Cả việc săn bắt cũng thế. Tuy nhiên, người dân ở đây lại rất rộng lòng mến khách.

Đến Hua Tát, khách sẽ được mời ngồi trên bếp lửa, uống sừng rượu cần với xeo thịt rừng sấy khộ Nếu khách là một người công minh, chính trực, chủ nhà sẽ mời khách nghe một câu chuyện cổ. Có thể những chuyện cổ ấy nói nhiều đến nỗi đau khổ con người, nhưng chính hiểu rõ những đau khổ ấy mà ở trong ta nảy nở ra sự sáng suốt đạo đức, lòng cao thượng, tình người.

Những người sống trong chuyện cổ bây giờ đều không còn nữạ Ở Hua Tát, họ đều biến thành đất bụi và tro than cả(2). Tuy vậy, linh hồn của họ vẫn bay thấp thoáng trên các khau cúi(3) nhà sàn.

Như những ngọn gió.

o0o0o0o

(1) Một thứ nứa nhỏ.
(2) Người Thái đen có tục chôn người chết hoặc hỏa táng.
(3) Biểu tượng trên nóc nhà sàn.

Truyện thứ nhất: Trái Tim Hổ
--------------------------------------------------------------------------------

Ngày ấy, ở Hua Tát có một cô gái tên Pùạ Sắc đẹp của nàng khắp các mường không ai bì kịp, da trắng như trứng gà bóc tóc mượt và dài, môi như son đỏ. Chỉ khổ một nỗi là Pùa bị liệt hai chân, suốt năm suốt tháng nằm một chỗ.

Hồi xảy ra chuyện này Pùa mười sáu tuổị Tuổi mười sáu là tuổi của mùa xuân, của tình yêụ Tình yêu có thể có nhiều nhưng mà mùa xuân thiếu nữ lại chỉ có một. Năm mười sáu tuổi là tháng đầu của mùa xuân, đến mười chín tuổi thì có khi đã sang mùa thu rồị

Mùa xuân ở Hua Tát đầy ấp tiếng khèn bè. Tiếng khèn quấn quýt chân sàn, chân quản ( sàn ở rể ) nhà các cô gáị Cỏ dưới chân các cầu thang không mọc được. Ở đấy phẳng lỳ một lớp đất bạc.

Sàn nhà Pùa không có những tiếng khèn bè. Không ai đi lấy cô gái liệt cả hai chân làm vơ.. Đàn ông thương xót, đến cả trẻ con cũng thương xót Pùa.Người ta cúng ma, tìm thuốc cho Pùạ Vô hiệu, đôi chân của nàng vẫn không nhúc nhích.

Năm ấy, Hua Tát sống trong mùa đông khủng khiếp. Trời trở chứng, cây cối khô héo vì sương muối, nước đóng thành băng. Mùa đông ấy, trong rừng Hua Tát xuất hiện một con hổ dữ. Hổ rình rập suốt ngày đêm quanh bản. Bản hoang vắng hẳn, không ai dám ra nương ra rẫỵ Buổi tối, chân các cầu thang được rấp rào gai kỹ lưỡng, các cửa nhà đóng chặc. Sáng sáng, thấy vết chân hổ vòng quanh từng ngôi nhà một. Cả bản sống trong nơm nớp lo âụ

Người ta đồn con hổ có trái tim khác thường, trái tim nó chỉ bằng hòn sỏi và trong suốt. Trái tim ấy là bùa hộ mệnh, cũng là vị thuốc thần. Ai có trái tim ấy sẽ được may mắn, giàu sang suốt cả cuộc đờị Trái tim ấy nếu đem ngâm rượu sẽ chữa được mọi thứ bệnh hiểm nghèọ Liệt chân như Pùa, uống thứ thuốc ấy cũng sẽ khỏi được.

Tin đồn như con chim cắt truyền khắp thung lũng. Ở bếp lửa, sân quản, dưới suối, trên nương, đâu đâu người ta cũng nói về trái tim hổ. Tin đồn bay xuống cả vùng đồng bằng của người Kinh, bay lên cả đỉnh núi cao của người H'mông. Tin đồn bao giờ cũng thế, qua miệng của những kẻ ngu dốt thì quái lạ thay, thường thú vị hơn qua những con người từng trảị

Có rất nhiều người đi săn con hổ. Có người Thái, người Kinh, người H'mông... Người thì muốn săn hổ để lấy trái tim làm bùa hộ mệnh, người thì muốn lấy trái tim hổ làm thuốc. Trách họ thế nào ? Đời người ta, ai đã chẳng từng săn đuổi bao nhiêu phù du ?

Trong đám thợ săn, đông nhất là đám con trai bản Hua Tát. Họ muốn lấy được trái tim hổ để về chữa bệnh cho Pùạ

Việc săn hổ kéo dài gần hết mùa đông. Nhưng, như có phép lạ, con hổ tinh khôn biết tránh những nơi người ta phục nó. Những người đi săn bị nó săn lạị Hơn mười người chết vì con hổ dữ. Tiếng khóc than lẫn với tiếng gió hú dài âm âm trong bản. Người ta nản chí dần, số người đi săn rụng nhanh như bứa chín cây, cuối cùng chỉ còn một ngườị Người ấy là Khó.

Khó là trai bản Hua Tát. Chàng mồ côi cha mẹ, sống như con don con dim. Con don, con dim sống lủi thủi, đi con đường riêng, ăn uống thế nào không ai biết được. Khó chẳng bao giờ tham dự những cuộc tụ tập, hội hè ở bản. Phần vì Khó nghèo, phần vì thấy xấu traị Chàng bị đậu mùa, mặt rỗ chằng chịt. Người Khó dị dạng : hai tay dài chấm đầu gối, đôi chân khẳng khiu lúc nào đi cũng như chạỵ Con don, com dim có đi bao giờ ?

Thấy Khó đi săn nhiều người ngạc nhiên. Người ta lại càng ngạc nhiên thấy Khó săn hổ không phải để lấy bùa phép may mắn cho chàng mà để lấy thuốc về chữa cho Pùạ Đêm đêm, họ thấy Khó đứng dưới chân sàn nhà Pùa đờ đẫn như kẻ si tình, cũng giống như tên ăn trộm.

Người bản Hua Tát không biết Khó đi con đường nào tìm vết hổ. Đường của con don, con dim hổ cũng không biết. Con hổ thấy sự nguy hiểm. Nó thay đổi chỗ ở, thay đổi đường đị Khó và con hổ săn nhau từng giờ...

Một đêm, người ta đang ngồi kể chuyện ở sàn nhà Pùa thì nghe thấy tiếng súng nổ. Tiếng súng kíp âm như tiếng sấm. Có tiếng hổ gầm dữ dội vang trong khe núị

Hổ chết rồi ! Đúng Khó bắn chết hổ rồi ! Cả bản kinh hoàng xôn xao như rừng gặp bãọ Người ta reo hò. Nhiều người vừa reo vừa trào nước mắt. Trai bản đốt đuốc lên rừng tìm Khó.

Gần sáng người ta mới tìm thấy Khó và xác con hổ đã chết. Cả hai lăn xuống vực sâu dưới suốị Khó bị gẫy lưng, mặt chàng đầy vết cào cấu của hổ. Con hổ bị bắn toác đầụ Viên đạn bắn gần xé rách trán hổ xuyên vào tận óc.

Nhưng, điều kỳ lạ nhất là ngực con hổ đã bị rạch đi, trái tim của nó không còn đấy nữạ Vết rạch bằng dao còn mới, máu bết hai bên vết rạch chảy ròng ròng, sủi thành bọt như bong bóng. Đã có kẻ nào đánh cắp trái tim con hổ !

Tất cả trai bản Hua Tát lặng im, cuối gầm mặt xuống. Họ hổ thẹn, căm giận, chua xót.

Hơn mười người chết trong mùa đông ấy vì con hổ dữ. Thêm hai người nữa chết dần sau câu chuyện đó. Hai người ấy là Pùa và Khó...

Người bản Hua Tát đã chôn con hổ ngay chỗ nó chết. Không ai nhắc lại huyền thoại về sự mầu nhiệm của trái tim hổ. Người ta đã quên nó đi như quên bao điều cay đắng xảy ra trên thế gian nàỵ Điều ấy cũng cần.

Còn nhớ chuyện ấy, bây giờ có lẽ chỉ rất ít ngườị


Truyện thứ tư: Tiệc Xòe Vui Nhất
--------------------------------------------------------------------------------

à thị E là con gái trưởng ban Hà Văn Nó. Hiếm có người xinh đẹp như Ẹ Lưng như lưng kiến vàng, mắt long lanh như sao Khun Lú -- Nàng Ủa (1), tiếng nói của nàng dịu dàng. Khi nàng cười, tiếng cười trong vắt và vô tư lư.. E xinh đẹp đã đành nhưng đức hạnh của nàng cũng it' có người bì kịp. Nàng là niềm tự hào của người Hua Tát. Cả bản mong nàng tìm được người chồng xứng đáng, trưởng bản Hà Văn Nó cũng muốn thế, các bô lão trong bản cũng muốn thế. Trao người con gái xinh đẹp như E cho người không xứng đáng là có tội với Then vì nàng là quà tặng của Then với người Hua Tát. Chọn ai bây giờ ? Người ta đưa việc chọn chồng của E ra bản. Người muốn xin làm rể trưởng bản Hà Văn Nó có rất nhiềụ Trai trong bản Hua Tát cũng có, trai ngoài bản Hua Tát cũng có. Các bô lão trong bản Hua Tát thức trắng một đêm, uống hết năm vò rượu cần rồi quyết định sẽ làm một cuộc thi tài để chọn người nào có đức tính quý nhất mà khó kiếm nhất làm chồng của Ẹ Đức tính quý nhất và khó kiếm nhất là đức tính gì ? Ai là người có đức tính ấy ? Các chàng trai ngồi tụm bên các bếp lửa bàn bạc, không biết bao nhiêu là rượu và thịt tiêu mạ Lớp trẻ bây giờ không thể suy nghĩ bằng nước lã được, đã đành...

Một bữa kia có chàng trai dáng vẻ hùng dũng đến nói với trưởng bản và các bô lão :

- Dũng cảm là đức tính quý nhất và khó kiếm nhất. Tôi là người có đức tính ấy !

- Cứ chứng minh xem ! Trưởng bản trả lờị

Chàng trai đi vào rừng. Đến chiều chàng vác về một con lợn lòi bị chàng bắn chết. Con lợn lòi đến hơn tạ thịt, lông cứng tua tủa như lông nhím, chết rồi mà hai con mắt đỏ lừcủa nó vẫn ngầu sắc máụ Chàng vứt con lợn xuống sàn, mắt chàng long lanh sáng, người chàng như có hào quang. Mọi người đều khen ngợi chàng.

Trưởng bản hỏi con gái :

- Con xem, chàng trai thực sự dũng cảm. Chàng ấy đã chứng minh đức tính dũng cảm của mình...

E mỉm cười, trái tim của nàng rung động khi nhìn thấy đôi mắt dũng cảm của người cầu hôn. Đôi mắt ấy như có ánh lửạ Nhưng vốn thông minh, E biết, những người dũng cảm sẽ mãi mê với sự nghiệp của mình.

E trả lời :

- Đúng thế, thưa cha ! Chàng trai đã chứng minh được đức tính dũng cảm của mình... đức tính thật là đáng quý... Nhưng thưa cha, đức tính ấy đáng quý nhưng chắc không khó kiếm vì mới từ sáng đến chiều chàng đã chứng minh được nó...

Các bô lão gật gù. Người ta đồng ý với lời E nóị Con lợn được mổ thịt. Cả bản xoè suốt đêm để mừng đức tính dũng cảm, đức tính đáng quý nhưng không khó kiếm. Nhiều người con trai chân chính ở rừng có đức tính này...

Một lần khác, có một chàng trai trông thông minh sáng sủa đến nói với trưởng bản và các bô lão :

- Khôn ngoan là đức tính đáng quý và khó kiếm ! Tôi là người có đức tính ấy !

- Cứ chứng minh xem ! Các bô lão nói với chàng traị

Chàng trai đi vào rừng. Đến chiều chàng mang về một đôi rái cá còn nguyên vẹn. Rái cá là con vật khôn ngoan nhất rừng, nó vô cùng tinh nhậy, bẫy nó gần như là việc sức người không thể làm được. Chàng trai mỉm cười, mắt chàng long lanh sáng, người chàng như có hào quang. Mọi người đều khen ngợi chàng.

Trưởng bản nói với con gái :

- Con xem, chàng trai thực sự khôn ngoan. Chàng ấy đã chứng minh đức tính khôn ngoan của mình...

E mỉm cười, lại một lần nữa trái tim của nàng rung đô.ng. Đôi mắt người cầu hôn có ánh lửa, cógiông bãọ Nhưng, những người khôn ngoan bao giờ cũng sẽ đau khổ, thậm chí bất ha.nh. Họ biết quá nhiều...

E trả lời :

- Thưa cha, chàng trai cũng đã chứng minh được đức tính đáng quý của mình. Nhưng thưa cha, đức tính ấy đáng quý nhưng chắc cũng không khó kiếm vì mới từ sáng đến chiều, chàng lại chứng minh được nó...

Các bô lão gật gù. Người ta làm thịt đôi rái cá. Cả bản lại xoè suốt đêm để mừng đức tính đáng quý nhưng không có kiếm. Những người con trai chân chính ở rừng đều cần có đức tính này...

Một lần khác nữa, có một chàng trai béo phị cưỡi ngựa đến bản. Chàng béo nói :

- Giàu có là đức tính đáng quý và khó kiếm nhất. Tôi là người giàu có.

Chàng béo đổ ra sàn không biết bao nhiêu là vàng và bạc trắng. Mọi người hoa mắt. Trưởng bản và các bô lão ngồi nín lă.ng. Chưa bao giờ họ thấy có người giàu có như thế.

- Giàu có là điều không phải chứng minh !... Chàng béo nóị

Các bô lão gật gù. Trưởng bản cũng gật gù. Chàng béo mỉm cười, mắt chàng có ánh lửa, có giông bão, có cả đêm tối nữạ Người chàng như c'o hào quang.

Trưởng bản hỏi E :

- Thế nào, con gái ta... Giàu có có phải là đức tính đáng quý và khó kiếm không con ?

- Khó kiếm thì đúng - E trả lời - Nhưng giàu có không phải là đức tính. Giả dối thì đúng là một đức tính. Không thể giàu có mà không giả dối...

Các bô lão cười phá lên. Người ta lại xoè suốt đêm để mừng con người giàu có.

Cuối cùng có một chàng trai trong bản Hua Tát tìm đến gặp trưởng bản và các bô lãọ Đấy là Hặc, chàng trai mồ côi, một thợ săn xuất sắc nhất bản. Hặc nói với mọi người :

- Trung thực là đức tính đáng quý và khó kiếm nhất !

- Cứ chứng minh xem ! Mọi người bảo chàng. Hặc trả lời :

- Trung thực không phải là cái vòng bạc ở cổ đưa ra cho mọi người trông thấy, sờ tay vào nó.

Mọi người xôn xao, các bô lão bàn tán. Trưởng bản tức giận, mặt ông đỏ bừng như lửa :

- Phải chứng minh ! Trưởng bản hét lên, ông đã nhìn thấy đôi mắt trìu mến của E nhìn Hặc.

- Ai tin mày ? Ai bảo mày có đức tính trung thực ? Trưởng bản hỏị

- Then biết ! Hặc trả lờị

- Cả con cũng biết ! E nói nghiêm trang.

- Điên rồ ! Trưởng bản gầm lên. Ông nhìn sang các bô lão cầu cứụ Ông biết, người già bao giờ cũng tìm ra lối thoát đơn giản cho mọi rắc rối trên đờị

- Hãy cầu Then đi ! Một vị bô lão bảo Hặc. Trời đang hạn hán, tất cả mó nước (2) đều đã cạn khộ Nếu con trung thực, con hãy cầu Then mưa xuống !

Trưa hôm sau, dân bản Hua Tát lập đàn cầu đảo, không khí oi nồng ngột ngạt. Hặc bước lên đàn, chàng ngước đôi mắt trang nghiêm nhìn trời . Chàng nói :

- Con sống trung thực, dầu biết trung thực bao giờ cũng chịu đau khổ thiệt thòị Tuy nhiên, nếu lòng trung thực chuộc được tội lỗi và mang tình yêu đến được cho thế gian này, xin trời mưa xuống...

Trời cao tĩnh lă.ng. Bỗng nhiên từ đâu đó xa xôi có một cơn gió mơ hồ thổi về. Tất cả ngọn cây trên rừng xào xạc. Mặt đất bắt đầu xuất hiện những cơn lốc nhỏ.

Buổi chiều, bầu trời đầy mây vần vũ và khi đêm xuống thì mưa như trút.

Lần ấy, người ta đã xoè suốt một tuần trăng để mừng đám cưới của Hặc với con gái trưởng bản.

Đây là tiệc xoè vui nhất ở bản Hua Tát. Cả bản đều say khướt. Từng cái cột nhà, thậm chí đến từng cái cây trong vườn cũng được mời uống một sừng rượu đạị

-- Nguyễn Huy Thiệp
o0o0o0o

(1) Nhân vật trong truyện cổ. Sao Khun Lú - Nàng Ủa : Sao Hôm, Sao Maị
(2) Nguồn nước chảy từ núị
Courtesy chị Phạm Chi Lan
Thương Nhớ Đồng Quê | Kiếm Sắc

 


Ý Kiến Bạn Ðọc
 
Tên