Nguyễn Du
câu 1515 đến 1530
Kể chi những nỗi dọc đường,
Buồn trong này nỗi chủ trương ở nhà.
Vốn dòng họ Hoạn danh gia,
1530. Con quan Lại bộ tên là Hoạn thư.
Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa,
Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày.
Ở ăn thì nết cũng hay,
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già.
1535. Từ nghe vườn mới thêm hoa,
Miệng người đã lắm tin nhà thì không.
Lửa tâm càng dập càng nồng,
Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa:
"Ví bằng thú thật cùng ta,
1540. "Cũng dong kẻ dưới mới là lượng trên.
"Dại chi chẳng giữ lấy nền,
"Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình ?
"Lại còn bưng bít giấu quanh,
"Làm chi những thói trẻ ranh nực cười !
1545. "Tính rằng cách mặt khuất lời,
"Giấu ta ta cũng liệu bài giấu cho !
"Lo gì việc ấy mà lo,
"Kiến trong miệng chén có bò đi đâu ?
"Làm cho nhìn chẳng được nhau,
1550. "Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên !
"Làm cho trông thấy nhãn tiền,
"Cho người thăm ván bán thuyền biết tay."
Nỗi lòng kín chẳng ai hay,
Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài.
1555. Tuần sau bỗng thấy hai người,
Mách tin ấy cũng liệu bài tâng công.
Tiểu thư nổi giận đùng đùng:
"Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi !
"Chồng tao nào phải như ai,
1560. "Điều này hẳn miệng những người thị phi !"
Vội vàng xuống lệnh ra uy,
Đứa thì vả miệng đứa thì bẻ răng.
Trong ngoài kín mít như bưng,
Nào ai còn dám nói năng một lời !
1565. Buồng đào khuya sớm thảnh thơi,
Ra vào một mực nói cười như không.
Đêm ngày lòng những dặn lòng,
Sinh đà về đến lầu hồng xuống yên.
Lời tan hợp nỗi hàn huyên,
1570. Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng.
Tẩy trần vui chén thong dong,
Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra.
Chàng về xem ý tứ nhà,
Sự mình cũng rắp lân la giãi bàỵ
1575. Mấy phen cười nói tỉnh say,
Tóc tơ bất động mảy may sự tình.
Nghĩ đà bưng kín miệng bình,
Nào ai có khảo mà mình lại xưng ?
Những là e ấp dùng dằng,
1580. Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi.
Có khi vui chuyện mua cười,
Tiểu thư lại giở những lời đâu đâu.
Rằng: "Trong ngọc đá vàng thau,
"Mười phần ta đã tin nhau cả mười.
1585. "Khen cho những miệng dông dài,
"Bướm ong lại đặt những lời nọ kia.
"Thiếp dù vụng chẳng hay suy,
"Đã dơ bụng nghĩ lại bia miệng cười !"
Thấy lời thủng thỉnh như chơi,
1590. Thuận lời chàng cũng nói xuôi đỡ đòn.
Những là cười cợt phấn son,
Đèn khuya chung bóng trăng tròn sánh vai.
Thú quê thuần hức bén mùi,
Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô.
1595. Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ,
Một màu quan tái mấy mùa gió trăng.
Tình riêng chưa dám rỉ răng,
Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua:
"Cách năm mây bạc xa xa,
1600. "Lâm Truy cũng phải tính mà thần hôn."
Được lời như mở tấc son,
Vó câu thẳng ruổi nước non quê người.
Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
1605. Roi câu vừa gióng dặm trường,
Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh.
Thưa nhà huyên hết mọi tình,
Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen.
Nghĩ rằng: "Ngứa ghẻ hờn ghen,
1610. "Xấu chàng mà có ai khen chi mình !
"Vậy nên ngảnh mặt làm thinh,
"Mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày.
"Lâm Truy đường bộ tháng chầy,
"Mà đường hải đạo sang ngay thì gần.
1615. "Dọn thuyền lựa mặt gia nhân,
"Hãy đem dây xích buộc chân nàng về.
"Làm cho cho mệt cho mê,
"Làm cho đau đớn ê chề cho coi !
"Trước cho bõ ghét những người,
1620. "Sau cho để một trò cười về sau !"
Phu nhân khen chước rất mầu,
Chiều con mới dạy mặc dầu ra tay.
Sửa sang buồm gió lèo mây,
Khuyển Ưng lại chọn một bầy côn quang.
1625. Dặn dò hết các mọi đường,
Thuận phong một lá vượt sang biển Tề.
Nàng từ chiếc bóng song the,
Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu.
Bóng đâu đã xế ngang đầu,
1630. Biết đâu ấm lạnh biết đâu ngọt bùi.
Tóc thề đã chấm ngang vai,
Nào lời non nước nào lời sắt son.
Sắn bìm chút phận cỏn con,
Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng ?
1635. Thân sao nhiều nỗi bất bằng,
Liều như cung Quảng ả Hằng nghĩ nao !
Đêm thu gió lọt song đào,
Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời.
Nén hương đến trước Thiên đài,
1640. Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân.
Dưới hoa dậy lũ ác nhân,
Ầm ầm khốc quỷ kinh thần mọc ra !
Đầy sân gươm tuốt sáng lòa,
Thất kinh nàng chửa biết là làm sao.
1645. Thuốc mê đâu đã tưới vào,
Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì !
Vực ngay lên ngựa tức thì,
Phòng đào viện sách bốn bề lửa dong.
Sẵn thây vô chủ bên sông,
1650. Đem vào để đó lận sòng ai hay ?
Tôi đòi phách lạc hồn bay,
Pha càn bụi cỏ gốc cây ẩn mình.
Thúc ông nhà cũng gần quanh,
Chợt trông ngọn lửa thất kinh rụng rời.
1655. Tớ thầy chạy thẳng đến nơi,
Tơi bời tưới lửa tìm người lao xao.
Gió cao ngọn lửa càng cao,
Tôi đòi tìm đủ nàng nào thấy đâu !
Hớt hơ hớt hải nhìn nhau,
1660. Giếng sâu bụi rậm trước sau tìm quàng.
Chạy vào chốn cũ phòng hương,
Trong tro thấy một đống xương cháy tàn.
Ngay tình ai biết mưu gian,
Hẳn nàng thôi lại có bàn rằng ai !
1665. Thúc ông sùi sụt ngắn dài,
Nghĩ con vắng vẻ thương người nết na.
Di hài nhặt sắp về nhà,
Nào là khâm liệm nào là tang trai.
Lễ thường đã đủ một hai,
1670. Lục trình chàng cũng đến nơi bấy giờ.
Bước vào chốn cũ lầu thơ,
Tro than một đống nắng mưa bốn tường.
Sang nhà cha tới trung đường,
Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên.
1675. Hỡi ôi nói hết sự duyên,
Tơ tình đứt ruột lửa phiền cháy gan !
Gieo mình vật vã khóc than:
"Con người thế ấy thác oan thế nàỵ
"Chắc rằng mai trúc lại vầy,
1680. "Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau !
"Thương càng nghĩ nghĩ càng đau,
"Dễ ai rấp thảm quạt sầu cho khuây."





Gần miền nghe có một thầy,
Phi phù trí quỷ cao tay thông huyền.
1685. Trên tam đảo dưới cửu tuyền,
Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.
Sắm sanh lễ vật rước sang,
Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han.
Đạo nhân phục trước tĩnh đàn,
1690. Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương.
Trở về minh bạch nói tường:
"Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra.
"Người này nặng nghiệp oan gia,
"Còn nhiều nợ lắm sao đà thoát cho !
1695. "Mệnh cung đang mắc nạn to,
"Một năm nữa mới thăm dò được tin.
"Hai bên giáp mặt chiền chiền,
"Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay !"
Nghe lời nói lạ dường này,
1700. Sự nàng đã thế lời thầy dám tin !
Chẳng qua đồng cốt quàng xiên,
Người đâu mà lại thấy trên cõi trần ?
Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân,
Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên.
Truyện Kiều | Truyện Kiều

 


Ý Kiến Bạn Ðọc
 
Tên